“HÃY ĐẾN GALILÊ”: SỰ THINH LẶNG CỦA LỄ PHỤC SINH

Khi bạn đến nhà thờ vào Thứ Bảy Tuần Thánh, hầu như không có mấy ai ở đó. Đám đông đông đảo của Thứ Năm và Thứ Sáu Tuần Thánh đã đi mất. Có một vài người trong Nhà thờ tập luyện cho lễ vọng Phục sinh nhưng chỉ vậy thôi.
Tôi chia sẻ về sự thinh lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh và sự xuống “ngục tổ tông” của Chúa Giêsu để chia sẻ với tình trạng của những người đã chết và những người bị bỏ rơi. Sự thinh lặng tiết lộ cho chúng ta ý nghĩa thực sự của Mầu Nhiệm Vượt Qua.
Nhưng ngay cả sự sống lại cũng xuất hiện trong sự thinh lặng và đơn giản giống như vậy.
Tôi đã tham dự rất nhiều lễ vọng Phục sinh, và tất cả đều rất hoành tráng. Cuộc rước kiệu Mừng Salubong đầy những “thiên thần” trên một sân khấu dựng sẵn. Đèn sáng rực và một ban nhạc chơi từ phía sau. Bức tượng của Đức Mẹ, mặc dù vẫn còn phủ màu đen, nhưng sẵn sàng bùng nổ trong niềm vui khi kiệu của Đức Mẹ được trang trí bằng hoa. Tượng Chúa Phục Sinh xuất hiện, với bản “Hallelujah” của Handel được mở trên loa lớn ở phía sau. Mọi người vỗ tay khi “thiên thần” được chỉ định hát “Regina coeli, laetare, Alleluia”.
Nhưng tất cả những điều này tương phản với những gì thực sự đã xảy ra vào “ngày đầu tiên của tuần mới”, trong chính ngày Phục Sinh.
Các phụ nữ đã đến đó sớm; trời vẫn còn tối. Họ lo lắng không biết ai sẽ lăn tảng đá cho họ. Nhưng trong ba tường thuật (Máccô, Luca và Gioan), tảng đá đã được lăn ra rồi. Đã có một thiên thần, một người trẻ, nói với họ rằng Chúa Giêsu đã sống lại: “Các người tìm Giêsu Na-za-rét, Đấng bị đóng đinh ư? Người đã sống lại rồi, Người không còn ở đây nữa. Này là nơi họ đã đặt Người” (Mc 16:6). Nhưng Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Tất cả những gì họ thấy chỉ là khăn liệm, không còn gì khác.
Sau đó, một số người trong số họ gặp Chúa Giêsu trên đường. Maria Mađalêna thậm chí còn nhầm Người là người làm vườn. Hai môn đệ không nhận ra người lạ mặt trên đường. Thiên thần nói với họ: “Hãy đi đến Galilê. Ở đó, Người sẽ gặp các con.” Ngay cả trước cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã nói với họ: “Sau khi thầy sống lại, thầy sẽ đến Galilê trước các con” (Mc 14:28). “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các con khi Người còn ở Galilê, rằng Con Người phải bị nộp cho những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24, 6-7). Chính tại Galilê họ đã học biết về Mầu Nhiệm Vượt Qua lần đầu tiên.
Ba điều tôi học được về Galilê.
Thứ nhất, Galilê không phải là trung tâm. Jerusalem mới là trung tâm. Nhiều người dân ở đó là nông dân hoặc ngư dân. Nội dung các dụ ngôn và ẩn dụ của Chúa Giêsu đều lấy từ cảnh quan nông nghiệp của Galilê — lúa mì và cỏ dại, chim chóc trên trời, hoa huệ ngoài đồng, cây vả và cây sung già cỗi. Các môn đệ đầu tiên của Người cũng là những ngư dân, và được gọi từ Hồ Galilê. Họ bỏ thuyền và đi theo Người.
Thứ hai, Galilê là nơi mọi thứ bắt đầu. Đây là nơi các môn đệ được huấn luyện. Đây là nơi họ chứng kiến Người giảng dạy, quở trách ma quỷ, làm phép lạ và chữa lành người phung. Chính tại Nadarét của Galilê, nơi im lặng, Chúa Giêsu được huấn luyện bởi cuộc sống đơn sơ của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Chính tại một trong những hội đường ở đó, Người đã công bố sứ mệnh giải thoát người nghèo và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Đây cũng là nơi Người bị khước từ và bị vứt bỏ. Mọi thứ đã xảy ra ở vị trí lạc hậu và sự thinh lặng của Galilê.
Thứ ba, hạt giống của Nước Trời đã hiện diện ở Galilê. Sự phục sinh đã hiện diện trong những điều bình thường. Trong sự đơn giản và thinh lặng của mình, cuộc sống hàng ngày của con người đã loan báo sự phục sinh: viên ngọc quý báu, người gieo hạt giống, ánh sáng trên giá đèn, muối của đất, hạt cải nhỏ bé, người con hoang đàng, v.v.
Vào đêm Phục Sinh, tôi đi quanh thôn nhỏ của chúng tôi bên bờ biển. Không có ai ở đó. Trời vẫn còn tối một chút vì mặt trời chưa mọc hẳn. Tuy nhiên, trong sự thinh lặng, những điều nhỏ bé xung quanh nói với tôi về quá khứ tuổi thơ của tôi, cũng như một sự phục sinh trong tương lai.
Đó là mặt trời tuyệt đẹp, sắp mọc. Đó luôn là một cảnh tượng đẹp để chiêm ngưỡng nếu chúng ta thức dậy sớm như lời bà nội chúng ta thường nói. Mặt trời đó chiếu sáng cho cả người tốt lẫn kẻ xấu (Mt 5:45).
Đó là cảnh biển. Biển đối với tôi là một thực tế đa nghĩa: chính nơi đó tôi học cách đánh cá và bơi; cũng chính nơi đó tôi suýt chết đuối khi đang câu cá. Chính khi nhìn thấy biển, tôi học cách khóc khi nắm tay mẹ khi bà khóc trong nỗi buồn; cũng chính nơi đó tôi học được thế nào là đồng cảm.
Có một “guiwanon” ở bờ biển — một mạch nước uống sạch, có thể uống được ngay bên cạnh biển. Trước khi có nước máy, mọi người xuống biển, uống từ “guiwanon”, giặt quần áo và tắm nước lạnh. Nước luôn là dấu chỉ của sự sống, là nơi chúng ta gặp Đấng Cứu Thế, như người phụ nữ Samari cho chúng ta biết.
Cũng có những chiếc thuyền đánh cá nhỏ. Giống như ở Galilê, đây không phải là những chiếc thuyền có động cơ. Ngư dân sử dụng mái chèo thậm chí từ trước đến nay. Simon đã làm theo lời Chúa Giêsu nói với ông: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới” (Lc 5, 4). Điều này gây ấn tượng đặc biệt đối với những ngư dân sinh sống này.
Có những cây dừa nơi ông Oming và bà Miguela, một cặp vợ chồng, trèo lên mỗi ngày để thu hoạch rượu tuba. Cho đến ngày ông Oming qua đời, và bà Miguela già ngã từ trên cây khi đang làm công việc hàng ngày. Đối với cuộc sống trẻ trung của chúng tôi, tuba là cuộc sống. Giống như rượu nho đối với người Do Thái, tuba là nguồn vui cho già trẻ, là dấu chỉ của niềm vui trong Nước Trời.
Những điều bình thường này, những con người đơn sơ này, những không gian thinh lặng này sẽ luôn là dấu chỉ của sự phục sinh của Chúa Giêsu. Thách thức là nhìn thấu qua những tảng đá che phủ nơi an táng của Chúa Giêsu. Không phải Chúa Giêsu ở phía sau nó. Vì ngay cả bên trong, chỉ có khăn liệm.
Trong sự im lặng của muôn vật và không gian, sự phục sinh được tìm thấy. Nó không to tiếng hay rõ ràng như bạn nghĩ. Nhưng nó ở đó.
Thách thức là tin điều thiên thần đã nói: “Người thật sự đã sống lại. Các con sẽ gặp Người ở Galilê.”
MỪNG CHÚA PHỤC SINH.
Daniel Franklin E. Pilario, C.M.
Duc Trung VU, CSsR dịch

Bài viết mới nhất

spot_img

Bài viết liên quan