TÂN PHÚC ÂM HÓA VÀ TRUYỀN THÔNG MỚI

Tân Phúc Âm Hóa và Truyền Thông Mới
Robert Barron
Trong nhiều năm gần đây, rất nhiều điều đã được viết, đăng tải, tweet, và nói về truyền thông mới, từ cả các chuyên gia Kitô giáo lẫn thế tục.[i] Ý kiến thì khác nhau: điều gì hiệu quả, điều gì không, còn có thể làm thêm gì nữa. Nhưng giữa những bàn luận ấy, tôi muốn hướng sự chú ý về phía nội dung của truyền thông mới. Đó chính là điều tôi đã làm tại Word on Fire suốt những năm qua—cung cấp nội dung loan báo Tin Mừng qua video, bài viết, podcast, và blog. Tôi đã học được nhiều điều nhờ dấn thân và thử nghiệm, đặc biệt qua các video bình luận về văn hóa trên YouTube.
Khi YouTube mới xuất hiện, tôi để ý thấy những video mèo nhảy từ mái nhà xuống cũng có thể đạt cả triệu lượt xem. Tôi tự hỏi: “Tại sao điều này không thể áp dụng cho nội dung tôn giáo, thiêng liêng?” Thế là tôi bắt đầu đăng bình luận, mở màn bằng một đoạn tám phút nói về bộ phim The Departed của Martin Scorsese. Video đó nhanh chóng thu hút hàng ngàn lượt xem. Tôi tiếp tục đăng thêm, và thật bất ngờ, qua thời gian, hàng triệu người đã xem các video này.
Từ dữ liệu nhân khẩu học trên YouTube, chúng tôi nhận ra đa số người xem là nam giới ở độ tuổi 20, 30, và 40—chính là nhóm mà Giáo Hội thường khó tiếp cận. Vậy thì, ngoài YouTube, Giáo Hội còn cách nào để vươn tới những người đàn ông đang xa rời giáo hội hoặc thậm chí không có đức tin này?
Chính vì thế, tôi trở thành một “fan” nhiệt thành của YouTube. Tôi cũng thú nhận rằng tôi thích một chút cái mà người Pháp gọi là joie de guerre—“niềm vui chiến đấu”. Tôi thích tham gia các bình luận, đối thoại trực tiếp với những người đang tranh luận với mình. Nhờ đó, tôi học được rất nhiều, không chỉ về những rào cản khiến việc loan báo đức tin gặp khó khăn, mà còn về những mối bận tâm thực sự, những thách thức trong tư duy và hành vi của người nghe. Thú vị là khoảng 90% bình luận đều tiêu cực, nhưng chính từ đó tôi có thêm chất liệu để làm video, viết bài, và dĩ nhiên, để giảng.
Trong bài tiểu luận này, tôi muốn chia sẻ những gì mình học được từ việc tham gia truyền thông mới, bắt đầu bằng một giới thiệu ngắn về Tân Phúc Âm Hóa, và cho thấy những khám phá ấy có thể tiếp thêm sức mạnh cho việc giảng thuyết của anh em thế nào.

Tân Phúc Âm Hóa là gì?
Để hiểu Tân Phúc Âm Hóa, có lẽ tốt nhất là trở về với hình ảnh mang tính biểu tượng: Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII công bố Công đồng Vatican II. Trong căn phòng với quả địa cầu lớn bên cạnh, ngài đã lần đầu tiên dùng một cụm từ tuyệt đẹp: lumen gentium. Sau này, đó trở thành tựa đề của một trong những hiến chế quan trọng nhất của công đồng, mở đầu bằng khẳng định: Đức Kitô chính là Lumen Gentium—Ánh sáng muôn dân.
Nhiệm vụ của Giáo Hội là soi sáng, là chiếu tỏa ánh sáng ấy cho chư dân. Theo tôi, Gioan XXIII đã mong muốn một Công đồng mang tính truyền giáo, làm cho Giáo Hội trở thành khí cụ thích hợp hơn để công bố Đức Kitô. Aggiornamento?—Đúng vậy, trong chừng mực Giáo Hội cần được cập nhật để trở thành phương tiện hiệu quả hơn cho việc loan báo Tin Mừng. Nhưng aggiornamento không có nghĩa là lấy thế giới hiện đại làm chuẩn mực để đo lường Giáo Hội.
Chúng ta biết rằng nhiều Kitô hữu ngoài Công Giáo được mời làm quan sát viên tại Công đồng Vatican II. Một trong số đó là nhà thần học Cải Cách Thụy Sĩ Karl Barth. Barth cảm thấy rất vinh dự trước lời mời ấy. Khi công đồng kết thúc, ông đặt một câu hỏi then chốt cho các nghị phụ: Aggiornamento nghĩa là gì? Các ngài trả lời: “Thích nghi và cập nhật.” Barth liền hỏi lại: Thích nghi với cái gì?[ii] Nói cách khác, Barth chất vấn: khi nào thì các ngài biết rằng Giáo Hội đã được cập nhật đủ mức?
Giờ đây, đó là một câu hỏi có gai nhọn. Barth đang hỏi: “Các ngài có đang dùng thế giới hiện đại như norma normans (chuẩn mực tối thượng) không?” Thế giới hiện đại có phải là thước đo để Giáo Hội tự đánh giá chính mình không? Dự án này có phải là hiện đại hóa theo nghĩa đó không? Hay dự án thật sự là Kitô-hóa thế giới và hiện đại hóa các phương tiện nhằm đạt tới mục tiêu ấy?
Ý tưởng và động lực của Vatican II là đưa Đức Kitô từ trong Giáo Hội ra với thế giới. Vài năm trước công đồng, Hans Urs von Balthasar đã viết một cuốn sách có tựa Razing the Bastions (Phá đổ các thành lũy).[iii] Ông tin rằng Giáo Hội đang thu mình hoặc bị giam hãm sau những bức tường Trung Cổ và rằng những bức tường ấy cần bị phá bỏ để cho sự sống của Giáo Hội tràn ra thế giới—để đưa Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân) đến với gentes (chư dân). Ông không hề cổ vũ một chương trình hiện đại hóa, như thể Giáo Hội phải bắt kịp thời đại. Thay vào đó, ông tập trung vào việc phá bỏ những bức tường ngăn cản chúng ta loan báo Tin Mừng cách hiệu quả.
Tiến tới năm 1975, chúng ta đón nhận một văn kiện xuất sắc của Đức Phaolô VI: Evangelii Nuntiandi. Người ta thường nhắc đến Gioan Phaolô II khi nói về Tân Phúc Âm Hóa, và điều đó đúng, nhưng trước triều đại ấy đã có văn bản phi thường này của Phaolô VI, trong đó ngài khẳng định, thực chất: “Giáo Hội không chỉ có một sứ mạng. Giáo Hội một sứ mạng.” Đây là một tư tưởng rất gần gũi với Gioan XXIII và Vatican II: căn tính của Giáo Hội chính là mang ánh sáng đến cho muôn dân.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Thượng Hội đồng khai sinh Evangelii Nuntiandi có sự hiện diện của Tổng Giám mục Krakow, Karol Wojtyła. Thực tế, chính ngài đã viết một trong những bản dự thảo sơ khởi của văn kiện này. Do đó, chẳng có gì bất ngờ khi ba năm sau, khi trở thành Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngài đặt Tân Phúc Âm Hóa thành một trong những mối quan tâm chính. Nó xuất phát từ kinh nghiệm của ngài tại Vatican II và từ việc soạn thảo Evangelii Nuntiandi.
Năm 1983, chưa đầy năm năm sau khi khởi đầu triều đại, Gioan Phaolô II đã có một bài diễn văn nổi tiếng tại Port-au-Prince, Haiti, trong đó ngài mô tả Tân Phúc Âm Hóa về cơ bản vẫn là cuộc loan báo xưa cũ (ít nhất là về nội dung)—tuyên xưng Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Nhưng ngài thêm rằng chúng ta cần có nhiệt huyết mới, cách diễn đạt mới, và phương thế mới. Bộ ba cụm từ ấy, vốn thường xuyên được lặp lại trong các văn kiện và diễn văn sau đó, chính là nguyên tắc tổ chức cho phần còn lại của bài tiểu luận này: nhiệt huyết mới, diễn đạt mới, phương thế mới.
Nhiệt huyết mới
Vatican II là một công đồng mang tính truyền giáo. Kết luận sau cùng này có thể rút ra từ Nhật ký Công đồng chi tiết của Yves Congar.[iv] Đây là một trong những cuốn sách giải trí nhất mà tôi từng đọc. Với 1.100 trang, đó là một cuốn đồ sộ, và dĩ nhiên không phải trang nào cũng cuốn hút. Nó giống nhật ký hơn là tiểu thuyết. Nhưng Congar là một người quan sát vừa hóm hỉnh vừa chua cay. Chẳng hạn, khi kể về một lần gặp một giám mục nào đó, ông viết: “Thật chán ngắt.” Hay khi nói về một thần học gia nổi tiếng, ông viết: “Ông ta nói nhiều quá.” Dù mang tính giải trí, cuốn sách đã khơi lại nơi tôi cả một cảm thức tuyệt vời về ý nghĩa thật sự của công đồng—là niềm hăng say truyền giáo, đưa Giáo Hội đến với thế giới.
Tôi bắt đầu lớp Một vào năm 1965 và trưởng thành trong thập niên 70, ngay sau công đồng. Liệu Giáo Hội khi ấy có thực sự mang đặc tính của một nhiệt huyết nồng cháy muốn công bố đức tin Kitô giáo cho thế giới không? Tôi e rằng lúc ấy Giáo Hội lại bận tâm nhiều hơn với những câu hỏi rắc rối nội bộ, xoay quanh vấn đề tính dục và quyền bính. Đó dĩ nhiên là những câu hỏi quan trọng, và những người nghiêm túc thì phải suy tư về chúng. Nhưng chắc chắn đó không phải là chương trình nghị sự của công đồng—công đồng không nhằm để Giáo Hội quay vào nội tâm và tự chất vấn chính mình.[v] Công đồng là để Giáo Hội đi ra thế giới với một sứ điệp đầy xác tín.
Ở cuối cuốn Nguyên lý Thần học Công giáo (Principles of Catholic Theology), Joseph Ratzinger có một đoạn kết đầy thú vị bàn về hệ quả của Vatican II. Dĩ nhiên, chúng ta đều biết các cuộc tranh luận xoay quanh cách diễn giải công đồng—hermeneutics of continuity (chú giải theo hướng liên tục) đối nghịch với hermeneutics of rupture (chú giải theo hướng đứt đoạn), v.v. Nhưng trong phần kết này, Ratzinger nêu một nhận định đơn giản mà sâu sắc: “Thỉnh thoảng, công đồng là điều cần thiết, nhưng chúng luôn chỉ ra một tình huống bất thường trong Giáo Hội và không nên được coi như mẫu mực cho đời sống Giáo Hội nói chung hay thậm chí là nội dung lý tưởng cho căn tính của Giáo Hội. Chúng là thuốc, chứ không phải dưỡng chất.”[vi] Nói cách khác, chúng ta không nên cố gắng duy trì mãi “tinh thần của Công đồng Vatican II”, hay thực ra, tinh thần của bất kỳ công đồng nào!
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, chỉ có hai mươi công đồng, và điều đó cũng nói lên nhiều điều. Chỉ hai mươi thôi—tại sao? Vì công đồng là những khoảnh khắc nguy hiểm, khi Giáo Hội tự đặt mình vào tình thế chất vấn để giải quyết một vấn đề quan trọng. Cần thiết? Vâng. Nicea, Chalcedon, Trent, Vatican II—tất cả đều cần thiết cho Giáo Hội, những lúc Giáo Hội phải tạm dừng lại trong tình trạng “treo lơ lửng”. Nhưng rồi, như Ratzinger lý luận, ta phải đi ra từ công đồng để thi hành sứ mạng trong thế giới. Điều không mong muốn chính là một công đồng vĩnh viễn—nghĩa là Giáo Hội cứ mãi trong tình trạng treo lơ lửng, mãi chất vấn ngay cả những tín điều nền tảng nhất. Tóm lại, đó là phê phán của Ratzinger đối với những ngày đầu của tạp chí Concilium, rằng nó nhắm trở thành “một cơ quan thường trực để duy trì ảnh hưởng của [tinh thần công đồng]”.[vii]
Chúng ta thấy thái độ đúng đắn này, được Ratzinger cổ vũ, nơi nhiều bậc thầy văn chương thiêng liêng thế kỷ 20. Trong cuốn Bad Religion, Ross Douthat lập luận rằng, vượt qua ranh giới Tin Lành–Công Giáo, ta có những nhân vật nổi bật như Thomas Merton, Dorothy Day, T. S. Eliot, W. H. Auden, C. S. Lewis, và Graham Greene. Điều gì đặc trưng cho tất cả những nhân vật ấy? Họ say mê tin vào Kitô giáo cổ điển, và họ cảm thấy đó chính là sứ điệp mà thế giới cần nghe. Điều không tìm thấy nơi họ chính là thái độ lưỡng lự, bối rối, hay chất vấn lặt vặt.[viii]
Đó chính là nhiệt huyết mà chúng ta cần để thực sự mang tính loan báo Tin Mừng. Điều này có nghĩa là ta phải thiếu trí tuệ chăng? Hoàn toàn không. Chúng ta muốn Giáo Hội luôn khai thác kho tàng trí thức phong phú của mình. Chúng ta muốn Giáo Hội đặt câu hỏi, nhưng không được làm xói mòn chính mình, nếu không thì nhiệt huyết của sứ điệp sẽ mất.
Và giờ đây ta đến với câu hỏi quan trọng nhất: nguồn gốc của nhiệt huyết nơi Giáo Hội là gì? Nói ngắn gọn: đó là niềm tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô từ cõi chết.
Vài năm trước, tôi được mời trình bày vào ngày thứ ba của một hội nghị về Phúc Âm Hóa. Tôi bước lên và nói: “Phúc Âm Hóa chính là việc công bố Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết.” Cả hội trường liền vỗ tay rào rào. Tôi đáp lại: “Thay mặt Đức Giêsu Phục Sinh, xin cảm ơn quý vị vì điều đó!” Sau đó, nhiều người trong khán phòng giải thích lý do họ vỗ tay: “Thưa Cha, chúng con đã nghe ba ngày hội thảo và thuyết trình, nhưng chưa ai nhắc đến biến cố Phục Sinh cả.”
Đó quả là một vấn đề nghiêm trọng nếu chúng ta thực sự muốn loan báo Tin Mừng, bởi vì euangelion—tin mừng—chính là sự phục sinh của Đức Giêsu từ cõi chết. Nó không phải là huyền thoại, không phải là truyền thuyết, không phải là biểu tượng, cũng không phải là thủ pháp văn chương. Nếu đọc một số tác phẩm, đặc biệt những thần học có ảnh hưởng mạnh mẽ của thập niên 1970, ta sẽ bắt gặp những diễn giải về phục sinh như thế này: “Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ tụ họp lại, cảm thấy được tha thứ hoặc cảm nhận Thần Khí của Người, rồi họ sáng tác những câu chuyện gợi hình về ngôi mộ trống và những lần hiện ra.” Gần đây, người ta vẫn còn lặp lại y nguyên: “Các môn đệ ngồi lại trong một vòng tưởng niệm, nhớ đến sức mạnh của Người, nhớ đến cách Người làm trung gian cho họ gặp Thiên Chúa, rồi họ dùng ngôn ngữ biểu tượng để nói về sự phục sinh.” Nếu phục sinh chỉ là thế thôi, thì xin mượn lời Flannery O’Connor: “Thì quẳng nó xuống địa ngục cho rồi.” Bởi vì trong đó chẳng còn chút sức mạnh loan báo Tin Mừng nào cả.
Tôi có một lý thuyết về Kitô học: nếu điều bạn nói về Đức Giêsu cũng có thể nói y nguyên về bà ngoại của tôi, thì đó không phải là một Kitô học đúng đắn. Bà ngoại tôi chính là người trung gian cho tôi cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nhiều hơn bất cứ ai khi tôi còn nhỏ. Khi bà qua đời, quả thật tôi đã cảm thấy: “Có lẽ mình từng làm những điều khiến bà buồn, mình chưa hiếu thảo như phải, bà thì tốt lành với mình mà mình chưa đáp lại.” Nhưng tôi cũng thực sự, như một đứa trẻ, cảm thấy được tha thứ. Tôi biết chắc rằng bà ngoại, nay ở trên thiên đàng, tất nhiên tha thứ cho tôi. Không ai truyền đạt tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa cho tôi hơn bà ngoại. Khi một thầy giáo tiểu học giảng giải “tình yêu vô điều kiện” nghĩa là gì, ngay lập tức tôi nghĩ đến bà ngoại. Nhưng nếu tất cả những gì ta nói về Đức Giêsu chỉ dừng ở mức như vậy, thì sứ điệp của ta thiếu hẳn sức mạnh loan báo Tin Mừng.
Điều khiến tôi ấn tượng khi đọc Tân Ước là: mỗi trang đều có sức mạnh như muốn “nắm lấy ve áo bạn mà lay.” Các tông đồ không chỉ trao đổi những giáo huấn thiêng liêng chung chung, coi Đức Giêsu như một vị đạo sư huyền bí nữa trong số nhiều người khác. Đúng, Đức Giêsu quả là một vị thầy thiêng liêng vĩ đại, và quả thật có nhiều điểm gặp gỡ giữa Người với các truyền thống tâm linh lớn khác. Nhưng các tác giả Tân Ước muốn nắm lấy cả thế giới mà tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết!”
Người Do Thái thế kỷ thứ nhất không phải là những người nhị nguyên. Khi Phaolô nói Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, ông không bao giờ có ý rằng chỉ linh hồn của Người lên trời còn thân xác thì ở lại. Ông cũng không bao giờ có ý rằng Đức Giêsu “sống lại” trong lời rao giảng (kerygma), hay rằng Người chỉ là huyền thoại, truyền thuyết, hay biểu tượng. Người Do Thái thế kỷ thứ nhất sẽ không bao giờ nói kiểu ấy. Họ sẽ nói: “Tôi đã thấy Người, tôi đã thấy Người! Đức Giêsu, Đấng đã bị đóng đinh kia—chính Người đó—tôi đã thấy Người sống, nhờ quyền năng của Thánh Thần, và tất cả mọi sự đã thay đổi vì điều ấy!”
Vậy điều này có ý nghĩa gì cho việc giảng thuyết? Đơn giản là: bài giảng thực sự mang tính loan báo Tin Mừng, tức là bài giảng có “nhiệt huyết mới” mà Gioan Phaolô II từng nói đến, phải là bài giảng bừng cháy ngọn lửa Phục Sinh. Đó là bài giảng không bao giờ quên, cũng không bao giờ “làm thuần hóa” biến cố Phục Sinh. Chính điều ấy là chìa khóa của nhiệt huyết mới.
Những cách diễn đạt mới
Tôi đã học được rất nhiều về những cách diễn đạt mới nhờ công việc với Word on Fire—sứ vụ loan báo Tin Mừng qua truyền thông mà tôi sáng lập—và đặc biệt qua các cuộc đối thoại trên YouTube. Đúng vậy, sứ điệp muôn đời về Đức Giêsu Phục Sinh cần được nói lại theo một cách mới, vì bối cảnh văn hóa đã đổi thay. Với quan điểm ấy trong đầu, tôi muốn tập trung vào ba yếu tố nổi bật của môi trường văn hóa mà tôi nhận ra qua kinh nghiệm trực tuyến: sự bối rối về ý nghĩa của từ “Thiên Chúa”; tình trạng “giải thiêng- mất đi vẻ huyền nhiệm” của thế giới; và sự kết hợp của các lực văn hóa là chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa chủ quan, và thái độ dửng dưng.
  1. Sự bối rối sâu xa về “Thiên Chúa”
Trong thế kỷ 20, nhiều vùng rộng lớn trên trái đất rơi vào ách của các chế độ vô thần chính thức. Ngày nay, phần lớn phương Tây bị chi phối bởi điều mà Thánh Gioan Phaolô II gọi là “chủ nghĩa vô thần thực hành”—chúng ta sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu. Và trên hết, giờ đây ta còn phải đối diện với làn sóng Tân Vô Thần hung hăng, được tiếp sức bởi các tác phẩm của Richard Dawkins, Sam Harris và Christopher Hitchens. Những người vô thần này thách thức chúng ta rằng: việc nói về Thiên Chúa chẳng qua chỉ là duy trì những mê tín trẻ con, phóng chiếu những nhu cầu đầy sợ hãi của con người, chẳng có chứng cứ khoa học nào hậu thuẫn, và thậm chí còn đi ngược lại khoa học. Thiên Chúa, theo cách họ mô tả, là một mối đe dọa cho sự phát triển của nhân loại: cả về trí tuệ, luân lý, lẫn các phương diện khác.
Thế nhưng, phần lớn tình trạng vô thần ngày càng tăng này lại dựa trên một quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Có một đoạn tuyệt vời trong The Seven Storey Mountain (Núi Bảy Tầng) của Thomas Merton. Khi ấy, Merton là một thanh niên vô tín, tình cờ bắt gặp trong cửa sổ hiệu sách Scribner’s trên Đại lộ Năm ở New York cuốn The Spirit of Medieval Philosophy (Tinh thần Triết học Trung Cổ) của Etienne Gilson.[ix] Anh nghĩ: “Mình đang học tiếng Pháp và văn chương trung cổ, có lẽ cũng nên tìm hiểu xem người Trung Cổ nghĩ gì.” Thế là anh mua sách, lên tàu đi Long Island, mở sách ra, và vừa thấy dòng Nihil Obstat ở trang bản quyền, anh đã muốn ném cuốn sách ra ngoài cửa sổ. Anh chẳng có hứng thú đọc một cuốn sách Công Giáo nào cả! Nhưng rồi, bằng một ân sủng kỳ lạ nào đó, anh vẫn tiếp tục đọc. Và anh đã khám phá điều gì? Anh tìm thấy nơi Gilson lời giải thích về tư tưởng vĩ đại của Aquinas về Thiên Chúa: ipsum esse subsistens—“chính hành vi hiện hữu tự thân”, chứ không phải là ens summum—“một hữu thể cao nhất” nằm trong số các hữu thể. Merton hoàn toàn bị cuốn hút bởi cuộc đối thoại trí thức tinh tế này về Thiên Chúa. Bấy lâu nay, anh vẫn nghĩ Thiên Chúa là một hữu thể ồn ào, mang tính thần thoại; nhưng ở đây, anh được đối diện với một Thiên Chúa hoàn toàn khác.
Trên các diễn đàn YouTube của tôi, hầu như ngày nào cũng có nhiều bằng chứng cho thấy người ta hôm nay vẫn nghĩ Thiên Chúa chỉ là một “hữu thể thần thoại ồn ào”. Ví dụ, chắc anh đã nghe nói về Quái vật Mì Bay (Flying Spaghetti Monster). Trong một bức thư châm biếm gửi Ủy ban Giáo dục Tiểu bang Kansas, Bobby Henderson viết rằng: có bao nhiêu bằng chứng cho sự hiện hữu của một Quái vật Mì Bay thì cũng bấy nhiêu bằng chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa.[x] Nói cách khác, Thiên Chúa chẳng khác gì một sản phẩm hoang đường, kỳ quái của trí tưởng tượng. Nhưng đây chỉ là điều mà Terry Eagleton phê phán như là “thuyết Yeti về Thiên Chúa”: có người nói có Yeti (hay Bigfoot), có người nói không. Và theo thuyết ấy, cách duy nhất để xác định sự thật là gom góp và cân nhắc chứng cứ.[xi]
Vấn đề của cách tiếp cận này là: nó hiểu Thiên Chúa như một hữu thể cạnh tranh lặt vặt cùng với mọi hữu thể khác. Khi Thiên Chúa bị hiểu như thế, tất yếu Thiên Chúa sẽ xung đột với chúng ta. Quyền năng tối thượng và tự do tối thượng của Thiên Chúa sẽ đối chọi với tự do giới hạn của tôi. Thiên Chúa sẽ giành giật cùng một “không gian hiện hữu” với tôi.
Tôi cho rằng nhiều triết thuyết Khai Sáng đã vật lộn với hình ảnh một Thiên Chúa “cạnh tranh” như thế, cho đến khi cuối cùng, với Feuerbach, Marx và các triết gia cùng thời, người ta nói: “Thôi thì cứ loại bỏ Ngài đi. Loại bỏ cái Thiên Chúa đang đe dọa tự do của tôi đi.” Jean Paul Sartre còn khẳng định: “Nếu Thiên Chúa hiện hữu, tôi không thể tự do. Nhưng tôi tự do, vì thế Thiên Chúa không hiện hữu.”[xii] Đó là một lý luận khá chặt chẽ, một tam đoạn luận hoàn hảo. Nhưng giả định phía sau nó là: tự do của Thiên Chúa cạnh tranh với tự do của chúng ta. Thực ra, Thiên Chúa không phải là một “hữu thể tối cao” trong số các hữu thể khác, mà là ipsum esse—chính hành vi hiện hữu tự thân. Ngài không cạnh tranh với tôi, nhưng là nền tảng cho chính sự hiện hữu của tôi.
Meister Eckhart, người từng giữ ghế thần học của Aquinas tại Paris trong một thời gian ngắn, đã nói rằng: “Chúng ta chìm sâu vào Thiên Chúa.”[xiii] Đó chính là từ siêu hình học của Aquinas. Thiên Chúa là nguồn cội và nền tảng sâu xa nhất của hữu thể con người; vì vậy, sự phó thác cho Thiên Chúa không phải là phó thác cho một “tự do cạnh tranh”, mà là khám phá ra tự do sâu xa nhất của chính mình. Irenaeus đã đưa ra điều trái ngược với Sartre khi viết trong quyển IV tác phẩm Chống Lạc Giáo: “Gloria Dei vivens homo.”—“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống trọn vẹn.” Vậy Thiên Chúa chẳng hề cạnh tranh với tự do hay sự phát triển của chúng ta; trái lại, vinh quang của Ngài chính là khi chúng ta sống viên mãn.
Hãy so sánh hình ảnh bụi gai bốc cháy với các hiện tượng thần linh trong truyền thống thần thoại Hy Lạp và La Mã. Trong các truyền thống ấy, khi chư thần ập vào đời sống con người, kẻ phàm trần thường bị thiêu rụi. Mọi sự phải nhường chỗ khi Zeus xuất hiện. Nhưng bụi gai bốc cháy thì khác: bốc lửa mà không bị thiêu rụi. Khi Thiên Chúa đến gần, chúng ta trở nên sáng rực, hăng say, và không bị hủy diệt nhưng được nâng cao trong tiến trình ấy.
Chúng ta, các Kitô hữu, không phải lúc nào cũng diễn đạt tốt điều mình muốn nói khi nhắc đến “Thiên Chúa”. Nhà thần học Đa Minh lừng danh Herbert McCabe thường công khai tranh luận với những người vô thần. Ông luôn để cho nhà vô thần trình bày dài dòng, rồi mới đứng lên micro và nói: “Tôi hoàn toàn đồng ý với ông/bà.” Bởi vì, trong mọi trường hợp, người vô thần đều đang từ chối một “hữu thể tối cao cạnh tranh, lặt vặt”. Và McCabe đồng ý: chúng ta, các Kitô hữu, cũng không tin vào một Thiên Chúa như thế.
Bài giảng hay là bài giảng nói về Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa của bụi gai bốc cháy. Đó là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Ta thấy điều này nơi Công đồng Chalcedon. Các tuyên tín Kitô học của công đồng ấy gợi nhớ bụi gai bốc cháy: hai bản tính kết hợp mà không trộn lẫn, không hòa tan, không nhầm lẫn. Thiên Chúa không ập vào cách hủy diệt, nhưng nâng cao tất cả những gì Ngài chạm đến. Và đó chính là điều mà người giảng phải nói đến.
  1. Thế giới đánh mất cảm thức huyền nhiệm
Trở ngại thứ hai cho đức tin hôm nay là “thế giới đánh mất cảm thức huyền nhiệm” (the disenchantment of the world), một cụm từ Max Weber dùng để mô tả tiến trình khởi đầu từ thời Cải Cách, dẫn tới Khai Sáng và Hiện Đại.[xiv] Charles Taylor đã dùng lại cụm từ này trong cuốn sách kinh điển của ông về thời đại tục hóa.[xv] Disenchantment nghĩa là một trạng thái sống không còn chiều kích thiêng liêng, không còn quy chiếu nào về tâm linh nữa. Đó là niềm tin chắc chắn chỉ vào thế giới hữu hình, có thể đo lường, kiểm soát. Đó là niềm tin rằng niềm vui trọn vẹn chỉ có thể tìm thấy trong và chỉ trong thế giới ấy.
Tôi thường xuyên chạm trán với thế giới quan chật hẹp này trên mạng. Hầu như ngày nào cũng có người nhắn với tôi trên diễn đàn: “Thưa Cha, con chẳng cần điều Cha nói. Con đang rất hạnh phúc.” Tôi thường trêu lại: “Tôi không tin lời anh nói đâu.”
Bất chấp điều người đối diện tôi khẳng định, thánh Augustinô đã đúng: tất cả chúng ta đều được dựng nên để hướng về Thiên Chúa. Ngài viết: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Ngài.”[xvi] Không có phát biểu nào trong toàn bộ truyền thống nhân học Kitô giáo hay hơn thế: Lạy Chúa, tự bản chất chúng con đã được hướng về Ngài, và chính vì thế lòng chúng con khắc khoải không ngừng.
Khi gặp những người hiện đại “mất cảm thức huyền nhiệm”, tôi thường nói: “Tôi biết anh không nói thật, bởi vì cho dù anh đạt được bao nhiêu sự thật, trí khôn anh vẫn còn đói khát. Anh không thể phủ nhận điều đó. Dù anh đạt được bao nhiêu công lý—và quả thật chúng ta đã đạt được những thành quả công lý vĩ đại như Phong trào Dân quyền—anh vẫn chưa bao giờ thấy đủ. Chúng ta đã tạo nên bao tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ, được tôn vinh suốt nhiều thế kỷ, nhưng vẫn chưa bao giờ đủ cả.”
Thánh Gioan Thánh Giá hiểu rõ điều này. Trong Ngọn Lửa Sống Động của Tình Yêu (The Living Flame of Love), ngài kể lại một thị kiến huy hoàng, trong đó trí nhớ, trí tuệ và ý chí hiện ra như những “hang động sâu thẳm của cảm xúc”. Và sâu đến nỗi “mọi thứ hữu hạn đều bất lực trong việc lấp đầy”, vì chỉ mình Thiên Chúa mới là đối tượng của chúng.[xvii] Bi kịch trung tâm của đời người chính là: chúng ta ném những thứ tầm thường của thế gian vào các hang động ấy, tưởng rằng chúng sẽ lấp đầy. Ta ném khoái lạc, quyền lực, tiền bạc, và danh dự vào đó; và khi những hang động ấy vẫn trống rỗng, kết quả tất yếu là nghiện ngập. Thế là ta phải ném vào nhiều khoái lạc hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều quyền lực hơn, nhiều danh dự hơn. Và khi vẫn không hiệu quả, cơn nghiện trở nên mạnh mẽ hơn, khó từ bỏ hơn.
Có một cảnh đáng nhớ trong sách các Vua quyển 1, khi ngôn sứ Êlia đối đầu trong trận chiến thiêng liêng với các tư tế Baal (18,21-40). Đây không chỉ đơn thuần là cuộc tranh đấu: “Thần của ta lớn hơn thần của ngươi.” Đây là một câu chuyện linh đạo sâu sắc. Các tư tế Baal, với bàn thờ dựng lên cho thần mình, tượng trưng cho khát vọng lạc hướng của nhân loại. Họ tượng trưng cho tất cả những nỗ lực của chúng ta nhằm lấp đầy cơn đói vô hạn bằng những thứ không phải Thiên Chúa—dù là giàu sang, khoái lạc, quyền lực hay danh dự. Họ nhảy múa quanh bàn thờ, nài nỉ, van vỉ, cầu khẩn Baal xuất hiện. Nhưng chẳng có ai đáp lại. Chẳng ai đến để thỏa mãn khát khao sâu thẳm trong tim họ. Đỉnh điểm là khi các ngôn sứ Baal tự rạch mình và đổ máu trong lúc nhảy quanh bàn thờ. Họ tự làm mình bị thương trong quá trình này, vốn chẳng hề vô hại. Sau khi các ngôn sứ giả đổ máu để phụng sự thần họ, Êlia kêu cầu Thiên Chúa thật, và Ngài đáp lời bằng lửa. Lời đáp ấy khẳng định rằng: chỉ có Thiên Chúa thật mới có thể đáp lời bằng lửa, mới có thể đáp lại khát vọng nồng cháy của lòng người.
Một bài giảng Tin Mừng tốt là bài giảng nêu rõ những “hang động sâu thẳm” này và chỉ ra Đấng duy nhất có thể lấp đầy chúng. Hãy bước đi trong các sách Tin Mừng, anh sẽ thấy những cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và những con người mang trong mình khát vọng vô hạn ở những hình thức khác nhau—dù là Phêrô, người phụ nữ bên bờ giếng, người mù từ thuở mới sinh, Giakêu, hay bất kỳ ai khác gặp gỡ Đức Giêsu. Tất cả đều mang một biến thể nào đó của khát vọng ấy. Là người giảng, chúng ta phải diễn đạt khát vọng ấy, khơi gợi nó, và làm cho người nghe bất an với tất cả những cách giả tạo mà họ đã thử dùng để lấp đầy nó.
  1. Chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa chủ quan, và thái độ dửng dưng
Rào cản văn hóa thứ ba đối với đức tin là chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa chủ quan và thái độ dửng dưng—những “chủ nghĩa” mà cả Thánh Gioan Phaolô II lẫn Đức Bênêđictô XVI đều than phiền. Gộp chung lại, chúng gợi lên một quan niệm: “Ý muốn của tôi quyết định giá trị. Anh tin gì thì tùy anh. Nhưng sự thật của tôi không phải là sự thật của anh, và sự thật của anh không phải là sự thật của tôi. Mỗi người đều tự quyết định lấy cho mình.”
Trong Luyện Ngục (Purgatorio), Dante mô tả việc trừng phạt những kẻ biếng nhác: họ bị buộc phải chạy vòng vòng, gần giống như trong một phòng tập thể hình. Ở mỗi tầng luyện ngục đều có một lời nhắc nhở về Đức Maria, và ở tầng dành cho kẻ biếng nhác là câu: “Mẹ đã vội vã ra đi.” Chính sau biến cố Truyền Tin, Maria đã vội vã lên miền sơn cước. Mẹ biết mình đang đi đâu. Mẹ biết mình sống cho điều gì.
Vấn đề của những “chủ nghĩa” trên là: chúng đã tạo ra một nền văn hóa không còn biết “vội vã ra đi”—thực ra cũng chẳng đi đến đâu cả. Văn hóa ấy mắc kẹt trong chính sự chủ quan, tương đối và dửng dưng của nó.
Triết gia vĩ đại Dietrich von Hildebrand đã phân biệt giữa cái chỉ mang lại thỏa mãn chủ quan và cái thực sự có giá trị khách quan. Lấy ví dụ: tôi thích spaghetti với thịt viên. Đó là điều làm tôi thỏa mãn chủ quan. Ngược lại, tôi không thích ăn cá, và hình như 98% các món đặc biệt trong nhà hàng đều là cá. Cá không làm tôi thỏa mãn chủ quan. Nhưng trong đời, tôi có bao giờ cảm thấy cần phải “rao giảng” để người khác ăn spaghetti và thịt viên, hay để chống lại việc ăn cá không? Chắc chắn là không. Đó chỉ là chuyện khẩu vị riêng.
Giờ hãy so sánh spaghetti hay cá với Bản giao hưởng số 9 của Beethoven. Dù bạn có hiểu hay không, có thích hay không, giao hưởng ấy vẫn có một sức mạnh khách quan to lớn. Các thánh cũng mang hiệu quả tương tự. Có điều gì đó nơi thánh Phanxicô hoặc Mẹ Têrêsa Calcutta có giá trị khách quan phi thường đến mức bạn bị chinh phục, biến đổi, và được sai đi nhờ các ngài.
Hoặc hãy lấy môn golf làm ví dụ. Người chơi golf đều biết môn thể thao này khắt khe ra sao, và golf thì chẳng quan tâm bạn có chơi giỏi hay không. Tôi có thể đánh một cú tệ hại, hoặc đánh một cú hay mà lại rơi vào bẫy cát hay vào bụi rậm, đôi khi còn đập cả gậy xuống đất. Nhưng golf thì chẳng hề hấn gì; bản chất khách quan của nó vẫn còn đó.
Điều tôi muốn nói là: chỉ khi chúng ta thật sự gặp gỡ với cái Thiện đích thực, chỉ khi chúng ta thoát khỏi những không gian chủ quan nhỏ bé của mình và bước vào những giá trị khách quan rõ ràng, thì khi ấy ta mới bắt đầu sống. Rao giảng Tin Mừng chính là rao giảng nêu cao giá trị khách quan vĩ đại của Tin Mừng, vượt qua xu hướng văn hóa chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn chủ quan, và trình bày giá trị cao cả của Thiên Chúa cùng những đòi hỏi và lề luật khách quan của Ngài.
Tất nhiên, ở Mỹ người ta thường có ác cảm với “luật”. Luật là cần thiết để xã hội tồn tại, nhưng trong thâm tâm, ai cũng muốn “giá như chẳng có luật nào”. Tôi muốn chạy 120 dặm một giờ trên xa lộ, nhưng tôi buộc phải tuân luật mà chạy 70, và phải dừng ở các trạm thu phí dù không muốn. Luật, theo cách đó, quả là một sự xúc phạm đến tự do của tôi. Nhưng khi đối diện với cái thiện khách quan, cái có giá trị khách quan, ta sẽ học được cách yêu mến các lề luật gắn liền với tiến trình được cuốn hút vào giá trị ấy.
Khoảng mười năm trước, tôi đến gặp một huấn luyện viên golf. Ông bảo tôi đổi tư thế đánh, và nói rằng theo cách này tôi sẽ đánh một cú “slice” hoàn hảo mỗi lần—quả nhiên đúng thế. Lần đầu tiên đứng vào tư thế ấy, tôi cảm thấy mình như quái vật Frankenstein. Nhưng khi tập luyện dưới sự hướng dẫn của ông, và sau nhiều điều chỉnh đau đớn, tôi bắt đầu đánh bóng theo một cách mà trước đây chưa bao giờ làm được. Trải nghiệm ấy khiến tôi nhớ tới Thánh Vịnh gia, khi ông mô tả niềm vui tìm được trong lề luật của Chúa, “suy gẫm lề luật ấy ngày đêm” (Tv 1,2).
Mới đây, trong một đêm nằm trên giường, tôi đọc Golf Digest, trong đó có một loạt bài về cách cải thiện cú đánh, tư thế và lối vung gậy. Tôi đang làm gì? Tôi đang suy gẫm lề luật ngày đêm, nghĩ về những gì cần điều chỉnh trong trò chơi golf của mình.
Nếu coi luật chỉ là một sự xúc phạm đến tự do, ta sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui. Ta có thể chịu đựng nó, nhưng không thể yêu thích nó. Nhưng nếu đối diện với giá trị khách quan, và muốn được cuốn hút vào sức mạnh của nó, ta thật sự học được cách yêu mến luật.
Rao giảng Tin Mừng đích thực là rao giảng nêu cao những giá trị khách quan vĩ đại này: Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và Giáo Hội như Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Giảng thuyết ấy công bố các lề luật của Giáo Hội không như những quấy rầy lặt vặt đối với tự do, mà như những điều kiện cần để ta có thể bước vào thế giới của giá trị. Đó chính là giảng thuyết với nhiệt huyết mới và cách diễn đạt mới.
Những phương thế mới
Sáu năm trước, khi tôi đang giảng dạy tại Đại Chủng viện Mundelein, Đức Hồng y George đến gặp tôi và nói: “Cha, tôi muốn cha khởi động công cuộc loan báo Tin Mừng.” Tôi đáp: “Tuyệt quá! Nhưng thưa Đức Hồng y, điều đó nghĩa là gì ạ?” Ngài trả lời: “Tôi không biết, nhưng tôi muốn cha làm.” Ngài vừa trở về từ Rôma, nơi Thánh Gioan Phaolô II đã hỏi ngài: “Cha đang làm gì để loan báo Tin Mừng cho nền văn hóa?” Và Đức Hồng y George chẳng biết phải trả lời sao. Đó chính là lý do ngài nhờ tôi giúp: loan báo Tin Mừng cho nền văn hóa.
Trong vài năm liền, tôi tổ chức các buổi nói chuyện ở Chicago tại các câu lạc bộ doanh nhân, câu lạc bộ công đoàn, câu lạc bộ đại học—ý tưởng là đưa Giáo Hội ra gặp gỡ những người trong thế giới kinh doanh. Chúng tôi mời họ trong giờ nghỉ trưa, tặng bữa ăn trưa, và tôi trình bày một bài ngắn. Các sự kiện này thường được đón nhận nồng nhiệt. Nhưng cuối cùng, tôi nói với Đức Hồng y George: “Điều chúng ta đang làm thật tốt đẹp, thưa Đức Hồng y, nhưng nó mang một chút nét duyên dáng của thế kỷ XIX, giống như việc Hồng y John Henry Newman có thể từng làm. Ngày nay, với những công nghệ mới quanh ta, một thế giới khác đang mở ra cho chúng ta.”
Chính điều đó đã thúc đẩy tôi dấn thân qua Word on Fire. Chúng ta đang có trong tay những công cụ mà Fulton Sheen hẳn sẽ “đổi cả cánh tay phải của mình” để có được. Ngài phải dựa vào việc người ta chọn một khung giờ cụ thể để nghe radio hay xem truyền hình. Còn nay, chỉ cần đăng một video lên YouTube, là nó có mặt trên mạng 24/7 khắp thế giới. Tôi thích thú với việc mình có thể làm một video bình luận về văn hóa, và chỉ mười phút sau đã nhận email từ Nepal, Philippines, hay một thủy thủ Mỹ ngoài khơi Nhật Bản. Tôi yêu cái độ phủ rộng mà Internet đem lại. Điều tôi cố gắng làm là đưa ra những bình luận về văn hóa: về sách, phim, âm nhạc, các tin tức thời sự—thường là theo hướng tích cực. Tôi tìm kiếm điều mà các Giáo phụ gọi là semina verbi—“những hạt giống của Ngôi Lời”—tức là những điểm chạm nhỏ của đức tin rải rác trong văn hóa.
Đó là lý do tôi chọn bộ phim The Departed của Martin Scorsese làm video đầu tiên. Scorsese có một cảm quan rất Công giáo, và điều đó hiện rõ trong phim. Tôi cũng cố gắng phơi bày những hình ảnh của Đức Kitô trong các bộ phim vốn không mang tính tôn giáo. Ai có thể ngờ rằng hình ảnh Đức Kitô gây ấn tượng nhất trong điện ảnh đương đại lại xuất hiện trong Gran Torino của Clint Eastwood? Bộ phim ấy chứa đựng một cách diễn đạt vô cùng đẹp đẽ về học thuyết Christus Victor (Đức Kitô Khải Hoàn) trong ơn cứu độ. Khi tham chiếu đến những bộ phim ấy và khai thác các chủ đề thiêng liêng của chúng, tôi có thể tiếp cận được những nhóm người mà Giáo Hội vốn rất khó chạm tới.
Vài năm trước, tôi nhận được email từ một thanh niên 19 tuổi, mở đầu: “Thưa Cha, con ghét Giáo Hội Công Giáo, con ghét các linh mục.” Nhưng cậu lại nói cậu rất thích Bob Dylan. Một đêm nọ, cậu tìm Bob Dylan trên Google, và “một trong các video của Cha hiện lên. Con thấy chiếc cổ áo dòng, và con chỉ muốn tắt cửa sổ đi. Nhưng con đã xem, và con thích, thế là con xem thêm video thứ hai về Bob Dylan, rồi video thứ ba. Từ đó con đi đến rất nhiều video khác của Cha, rồi quay lại website của Cha, và cuối cùng con bị lôi cuốn.” Cậu kết thúc: “Và giờ đây con đang tham gia chương trình Dự tòng (RCIA).”
Điều tôi thích trong câu chuyện này là: việc gieo hạt giống chính là điều mà truyền thông mới đem lại—khả năng loan báo Tin Mừng cho những người mới, theo những cách mới. Làm sao cậu bé đó có thể tự bước vào một nhà thờ? Cậu chẳng bao giờ đến nhà xứ hay các cơ sở của chúng ta. Nhưng trong thế giới ảo kỳ lạ của Internet, tôi đã có thể gieo một hạt giống.
Hôm nay, chúng ta đang ở vào một thời kỳ có sức mạnh phi thường, có thể so sánh với thời Gutenberg. Chúng ta đang sống giữa một cuộc cách mạng công nghệ, giúp ta vươn tới một nền văn hóa mà tôi vừa mô tả một cách sơ lược nhưng chân thực. Đây chính là lúc phải dùng những công cụ truyền thông mới ấy để dấn thân vào nền văn hóa, với giá trị khách quan vĩ đại mà ta gọi là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Khi ta để cho Tin Mừng ấy biến đổi mình và cuốn ta vào sức mạnh của nó, thì ta sẽ bùng cháy như bụi gai bốc lửa—rực sáng mà không bị thiêu rụi. Và khi ấy, chúng ta có thể trở thành những người mang lumen gentium—ánh sáng muôn dân—đến với thế giới rộng lớn hơn.

* Bản dịch của Nhóm tủ sách Công Giáo.

[i] Xem Brandon Vogt, The Church and New Media: Blogging Converts, Online Activists, and Bishops Who Tweet (Huntington, IN: Our Sunday Visitor, 2011).
[ii] Karl Barth, Ad Limina Apostolorum: An Appraisal of Vatican II, bản dịch của Keith R. Crim (Richmond, VA: John Knox Press, 1968), tr. 20.
[iii] Hans Urs von Balthasar, Razing the Bastions: On the Church in this Age (San Francisco: Ignatius Press, 1993).
[iv] Yves Congar, My Journal of the Council (Collegeville, MN: Liturgical Press, 2012).
[v] Ở những chỗ khác tôi đã gọi giai đoạn này là “Công giáo màu be.” Xem bài Beyond Beige Catholicism, Church 16 (2000), tr. 5–10; và trong Bridging the Great Divide: Musings of a Post-liberal, Post-conservative Evangelical Catholic (Lanham, MD: Sheed & Ward, 2004), tr. 11–21.
[vi] Đức Hồng y Joseph Ratzinger, Principles of Catholic Theology: Building Stones for a Fundamental Theology, bản dịch của Mary Frances McCarthy (San Francisco: Ignatius Press, 1987), tr. 374.
[vii] Sđd., tr. 383.
[viii] Ross Douthat, Bad Religion: How We Became a Nation of Heretics (New York: Free Press, 2012), tr. 23–25.
[ix] Thomas Merton, The Seven Storey Mountain (New York: Harcourt, Brace and Co., 1948), tr. 171 và tiếp theo.
[x] Xem Richard Dawkins, The God Delusion (New York: Bantam Books, 2006), tr. 15, 76–78.
[xi] Xem Terry Eagleton, Reason, Faith and Revolution: Reflections on the God Debate (New Haven, CT: Yale University Press, 2009), tr. 110–111.
[xii] Xem Existentialism and Humanism (Brooklyn: Haskell House, 1977).
[xiii] Xem Matthew Fox trích bài giảng của Eckhart trong Breakthrough: Meister Eckhart’s Creation Spirituality in New Translation (Image, 1980), tr. 180.
[xiv] Max Weber, “Science as Vocation” trong The Vocation Letters, biên tập bởi David Owen và Tracy B. Strong, bản dịch của Rodney Livingstone (Indianapolis: Hackett Publishing, 2004), tr. 13 và tiếp theo. Weber mượn cụm từ này từ bài thơ của Friedrich Schiller The Gods of Greece (1788).
[xv] Charles Taylor, A Secular Age (Cambridge, MA: Belknap Press, 2007).
[xvi] Augustinô, The Confessions of St. Augustine, bản dịch của John K. Ryan (Garden City, NY: Image Books, 1960), tr. 43.
[xvii] Gioan Thánh Giá, The Living Flame of Love, trong The Collected Works of Saint John of the Cross, ấn bản hiệu đính, bản dịch của Kieran Kavanaugh và Otilio Rodriguez (Washington, DC: ICS Publications, 1991), tr. 680–681.

Bài viết mới nhất

spot_img

Bài viết liên quan